Trương Công Định
- Chiều dài: 1.193 m
- Lộ Giới: 32 m
- Cấp đường: III
- Điểm đầu, điểm cuối: Đường Lê Trọng Tấn, Đường Phú Riềng Đỏ
Ông sinh năm 1820, là anh hùng kháng Pháp, tên thường gọi là Trương Công Định. Từ nhỏ ông theo cha vào Gia Định. Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của Nguyễn Tri Phương, ông đứng ra chiêu mộ dân nghèo khai hoang lập ấp. Vì có công ấy, ông được triều đình Huế phong chức Quản cơ hàm lục phẩm. Tháng 2-1859, Pháp chiếm thành Gia Định, ông đem nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều chặn giặc và thắng trận ở Cây Mai, Thị Nghè... Năm 1860, ông tham gia giữ đồn Kỳ Hòa dưới quyền Tổng thống Quân vụ Nguyễn Tri Phương. Sau được triều đình Huế thăng chức Phó Lãnh binh, từ đó ông cùng các chiến sĩ rút về Tân Hòa, Gò Công xây dựng căn cứ kháng Pháp. Tại đây ông tổ chức nhiều trận phục kích quân địch ở một vùng rộng lớn từ Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn... tiêu hao rất nhiều lực lượng địch. Sau triều đình phong ông chức Lãnh Binh. Nghĩa quân và nhân dân vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho... suy tôn ông là “Bình Tây Đại Nguyên Soái”. Ngày 26-2-1863, Pháp huy động một lực lượng lớn mở cuộc tấn công vào căn cứ của nghĩa quân. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt, trong trận này ông phải cảm tử cận chiến với giặc và thoát khỏi vòng vây và rút về lập căn cứ ở làng Lý Nhơn (thuộc tỉnh Biên Hòa). Cuối năm 1864, trong khi ông đang chiến đấu chiếm lại Căn cứ Tân Hòa thì trong đêm 18 rạng 19-8-1864 ông rơi vào vòng vây của giặc. Ông quyết chiến và hy sinh anh dũng năm 1864. (Trích từ Ngân hàng tên dùng để đặt tên đường của tỉnh Bình Phước)
_____________________________________________________________________________________________________________________________________________
Truong Cong Dinh
- Length: 1,193 m
- Width: 32 m
- Road level: III
- Starting point, ending point: Le Trong Tan Street, Phu Rieng Do Street
He was born in 1820. He was a hero against the French. His common name is Truong Cong Dinh. From a young age, he followed his father to Gia Dinh. In 1850, responding to Nguyen Tri Phuong's policy of reclamation, he stood out to recruit poor people to reclaim land and establish hamlets. Because of this merit, he was ordained by the Hue imperial court to the rank of Sixth Grade Manager. In February 1859, the French occupied Gia Dinh citadel. He sent insurgents to be stationed in Thuan Kieu to stop the enemy then they won the battle at Cay Mai, Thi Nghe... In 1860, he participated in the maintenance of Ky Hoa garrison under the President of the Army Nguyen Tri Phuong. After being promoted to Deputy Warlord by the Hue imperial court, he and his soldiers withdrew to Tan Hoa and Go Cong to build bases to resist the French. Here he organized many ambushes in a large area from Go Cong, Tan An, My Tho, Cho Lon... which consumed a lot of enemy forces. After that, the imperial court appointed him Warlord. The insurgents and people in Go Cong, Tan An, My Tho... respected him as "Binh Tay Dai Nguyen Soai" (Great Marshals pacified the west). On February 26, 1863, France mobilized a large force to launch an attack on the base of the insurgents. The battle was extremely fierce. In this battle, he had to commit suicide in close combat with the enemy, then escaped the encirclement and retreated to establish a base in Ly Nhon Village (in Bien Hoa Province). At the end of 1864, while he was fighting to retake Tan Hoa Base, on the night of August 18-19 of 1864, he fell into the enemy's siege. He decided to fight and died heroically in 1864. (Excerpt from "Bank of names used to name roads of Binh Phuoc Province”)
________________________________________________________________________________________________________________________________________________