Phan Bội Châu
- Chiều dài:
6.808 m
- Lộ giới:
32 m
- Cấp đường:
II
- Điểm đầu,
điểm cuối: Đường Vành đai 1, phường Tân Phú, Đường Vành đai 2, xã Tiến Hưng
Ông sinh ngày 26-12-1867, quê
làng Đan Nhiễm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tên là Phan Văn San, ông nổi tiếng
thông minh từ nhỏ. Năm 1900, ông đỗ Giải nguyên trường thi Nghệ An, nhiệt tình
yêu nước. Đến năm 17 tuổi, ông tham gia phong trào Cần Vương.
Từ sau
khi thi đỗ, ông càng dốc tâm trí lo việc cứu nước, giao kết với các chí sĩ khắp
nơi. Năm 1904, ông vận động thành lập hội Duy Tân. Năm sau, ông cùng Tăng Bạt
Hổ sang Trung Quốc rồi Nhật Bản gây dựng phong trào Đông Du. Năm 1911, ông trở
lại Trung Quốc thành lập Hội Việt Nam Quang phục và Hội Chấn Hoa Hưng Á. Ông bị
bắt giam ở Quảng Châu. Sau khi được trả tự do, ông càng tích cực hoạt động. Năm
1922, cải tổ Hội Việt Nam Quang Phục thành Đảng Việt Nam Quốc dân.
Năm
1925, ông bị tay sai Pháp bắt cóc ở Thượng Hải. Ông bị kết án khổ sai chung
thân, nhân dân cả nước đấu tranh đòi ân xá cho ông. Toàn quyền phải nhượng bộ
nhưng phải an trí tại Huế. Ông mất ngày 29-10-1940, thọ 73 tuổi.
Thơ văn của ông phổ biến sâu rộng trong quần
chúng. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm văn học yêu nước, đóng góp phong phú
cho nền văn học Việt Nam gồm: Tự phán hay Phan Bội Châu niên biểu, Lưu cầu
huyết lệ tân thư, Việt vong thảm trạng.
(Trích từ Ngân hàng tên dùng để
đặt tên đường của tỉnh Bình Phước)
_____________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Phan Bội Châu
- Length: 6,808 m
- Width: 32m
- Road level: II
- Starting
point, ending point: Ring Road 1, Tan Phu Ward, Ring Road 2, Tien Hung Commune
He was born on December 26,
1867. His hometown is Dan Nhiem Village, Nam Dan District, Nghe An Province.
His name is Phan Van San. He was known for his intelligence from a young age.
In 1900, he passed the Nguyen Prize (the highest prize of Huong Exam - a inter-provincial exam) held in Nghe An.
He was passionately patriotic. At the age of 17, he joined the Can Vuong
movement (helping the king).
Since passing the exam, he
has devoted more and more attention to saving the country. He made friends with
magistrates from everywhere. In 1904, he campaigned for the establishment of
Duy Tan Association (innovation in thinking). The following year, he and Tang
Bat Ho went to China and then Japan to build the Dong Du movement (study abroad
in eastern countries). In 1911, he returned to China to establish the Vietnam
Quang Phuc Association and the Chan Hoa Hung Asia Association. He was detained
in Guangzhou. After being released, he became more and more active. In 1922,
the Vietnam Quang Phuc Association was reformed into the National Vietnamese
Party.
In 1925, he was kidnapped by
French henchmen in Shanghai. He was sentenced to life hard labor. The people in
our country fought for his amnesty. The governor had to give in but they forced
him to stay in Hue. He died on October 29, 1940, at the age of 73.
His poetry spread widely
among the masses. He is the author of many patriotic literary works, making rich
contributions to Vietnamese literature, including: Tu Phan or Phan Boi Chau
Nien Bieu (Chronology), Luu Cau Huyet Le Tan Thu (A new book written with the
blood and tears of Ryukyu), Viet Vong Tham Trang (Tragedy).
(Excerpt from "Bank of names
used to name roads of Binh Phuoc Province”)
____________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________