Ngành e-Logistics hay logistics điện tử được xem là
5PL logistics, tức logistics kết hợp với thương mại điện tử. Tại Việt Nam hiện
nay, ngành này khá mới mẻ, nhiều tiềm năng phát triển, tuy nhiên các doanh
nghiệp còn gặp không ít khó khăn.
CMCN 4.0 với những bứt phá trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo; theo
hướng tích hợp trí tuệ nhân tạo với mạng lưới kết nối Internet vạn vật (IoT) và
các công cụ hiện đại hóa đang bắt đầu thay đổi toàn bộ viễn cảnh của dịch vụ
kho bãi và phân phối hàng hóa trên toàn thế giới, với ước tính khoảng 5,5 triệu
thiết bị mới được kết nối mỗi ngày.
Cuộc cách mạng này sẽ ngày càng mở rộng việc kết nối những thiết
bị phi truyền thống như pallet, xe cần cẩu, thậm chí xe rơ-mooc chở hàng với
mạng internet. E-Logistics khiến những doanh nghiệp nào muốn theo con đường này
phải chuyển đổi số mạnh mẽ.
NGÀNH HẬU CẦN CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
E-Logistics có đặc thù riêng với những đơn hàng nhỏ lẻ, số lượng
đơn hàng lớn, nhiều chủng loại, tiến độ giao hàng nhanh, đòi hỏi độ chính xác
cao. Trong lĩnh vực này, công nghệ đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Hiện nay,
các nước phát triển đang từng bước thực hiện e-Logistics, green logisitics...
và ứng dụng công nghệ điện toán đám mây, công nghệ Blockchain... Ngành này cũng
đã bắt đầu ứng dụng trí tuệ nhân tạo hay robot vào thực hiện một số dịch vụ,
như dịch vụ đóng hàng hay dỡ hàng khỏi container, xếp dỡ hàng hóa trong kho,
bãi...
Trong khi đó, hiện nay, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
logistics của Việt Nam ứng dụng công nghệ vào công việc hàng ngày còn ở trình
độ thấp, chủ yếu là sử dụng phần mềm khai hải quan điện tử, công nghệ định vị
xe, email và internet cơ bản... Theo số liệu của Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ
Logistics Việt Nam (VLA), hiện nay, khoảng 50% - 60% doanh nghiệp đang ứng dụng
từ 2 đến 17 dịch vụ logisitics khác nhau, tùy theo quy mô và tính chất dịch vụ
của từng doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp đã hoạt động trong lĩnh vực logistics cần có
nhiều đột phá và đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao
năng lực quản trị.
Đã có một số doanh nghiệp lớn đã áp dụng thành công giải pháp công
nghệ mang lại hiệu quả cho dịch vụ logistics, giảm đáng kể chi phí liên quan.
Chẳng hạn, cảng điện tử (ePort) và lệnh giao hàng điện tử (eDO) tại Tân Cảng
Sài Gòn; ứng dụng giải pháp tổng thể trong dịch vụ logistics tại Công ty
T&M Forwarding... Tuy nhiên, ngành e-Logistics Việt Nam vẫn đang được đánh
giá là chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.
Lý do chính là hiện nay các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam
hầu hết đều có quy mô nhỏ và vừa nên hạn chế về vốn đầu tư, nguồn nhân lực
chuyên sâu về CNTT còn yếu và thiếu. Theo VLA, phần lớn doanh nghiệp logistics
và chuyển phát nhanh tại Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ, trong đó 90% số doanh nghiệp
có vốn dưới 10 tỉ đồng, 5% doanh nghiệp có vốn từ 10 - 20 tỉ đồng. Đối với
những doanh nghiệp này, khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng e-Logistics là vô
cùng gian nan.
Theo VLA, quá trình chuyển đổi số có chi phí rơi vào khoảng từ 200
triệu tới hàng chục tỷ đồng. Mức chi phí này là khá cao đối với những doanh
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ của Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp cho biết, nếu đầu
tư theo hướng tự động hóa như các mô hình và phần mềm nước ngoài thì tốn nhiều
chi phí đầu tư ban đầu; còn nếu tự làm theo mô hình nội bộ sẽ mất nhiều thời
gian, khó khăn, cần chi phí và nguồn nhân lực công nghệ thông tin… Nguồn lực
tài chính dành cho đầu tư chuyển đổi số trở thành một trong những bài toán khó
giải nhất hiện nay dành cho các doanh nghiệp ngành này, nếu không có sự hỗ trợ
của Nhà nước và các tổ chức tài chính tín dụng.
CẦN NHỮNG BƯỚC TIẾN NHANH VÀ MẠNH HƠN
Theo khảo sát của Redseer1, khoảng 86% số người tiêu dùng Việt Nam
sẽ duy trì hoặc tăng mua sắm trực tuyến trong giai đoạn hậu Covid-19. Mặc dù tỷ
lệ dịch vụ logistics nội bộ (inhouse logistics) ngày càng được các công ty chú
trọng nhưng các dịch vụ logistics bên thứ ba (3PL) được kỳ vọng sẽ chiếm hơn
2/3 tỷ trọng trong thị trường e-Logistics khu vực. Ngoài những cái tên nội địa
như VNPost, Viettel Post, AhaMove..., các "đại gia" quốc tế cũng đã
có chân tại đây như Grab, Gojek hay LalaMove.
Để ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, bắt kịp trình độ quốc
tế, theo xu hướng hình thành ngành e-Logistics trong bối cảnh CMCN 4.0 Nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ một phần vốn đầu tư cho doanh nghiệp e-Logistics. Thêm
vào đó là chính sách khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ cao có hình thức
cho thuê, chuyển giao các phần mềm quản trị e-Logistics cho các doanh nghiệp
logistics Việt Nam trên cơ sở miễn phí hoặc giá ưu đãi để các doanh nghiệp đều
có cơ hội sử dụng và tham gia vào chuỗi cung ứng e-Logistics.
Các công cụ hiện đại hóa đang bắt đầu thay đổi toàn bộ viễn cảnh
của dịch vụ kho bãi và phân phối hàng hóa trên toàn thế giới.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có chính sách ưu đãi về thuế, thuê đất,
lãi vay để hỗ trợ các doanh nghiệp logistics Việt nam có quy mô lớn có điều
kiện đầu tư hệ thống kho bãi, hệ thống phân loại hàng hóa, đủ sức cạnh tranh
với các tập đoàn lớn của nước ngoài.
Đối với các doanh nghiệp logistics vừa và nhỏ chưa có điều kiện
đầu tư công nghệ hoặc đầu tư hệ thống kho bãi cũng có thể tham gia vào các thị
trường ngách, quy mô nhỏ, chủng loại hàng đơn chiếc để phục vụ các doanh nghiệp
bán lẻ, các cá nhân kinh doanh thương mại điện tử trên mạng xã hội hoặc các nền
tảng ứng dụng di động. Hoạt động trong những thị trường ngách như vậy sẽ vừa
tầm với quy mô doanh nghiệp hơn vì các yêu cầu chất lượng dịch vụ logistics đối
với những khách hàng này cũng không quá cao.
Trong khi đó, các doanh nghiệp đã hoạt động trong lĩnh vực
logistics cần có nhiều đột phá và đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng công nghệ hiện
đại, nâng cao năng lực quản trị, tăng cường hợp tác, kết nối trong nước, khu
vực và toàn cầu, quản lý tốt chuỗi cung ứng, giảm chi phí, rút ngắn thời gian
lưu chuyển hàng hóa. Cụ thể, cần tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ hiện
đại theo xu hướng hình thành ngành e-Logistics trong cuộc CMCN 4.0 để nâng cao
sức cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm giá, phí các dịch vụ.
Ngoài ra, cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao cả về kỹ năng
thực tế, kiến thức chuyên môn và trình độ tiếng Anh chuyên ngành logistics.
Theo khảo sát của VLA, chỉ tính riêng nguồn nhân lực cho các công ty cung cấp
dịch vụ logistics từ nay đến năm 2030 sẽ cần đào tạo mới và bài bản khoảng
250.000 nhân sự để không những đáp ứng yêu cầu trong nước mà còn làm việc được
ở nước ngoài, nhất là trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Quy mô của ngành thương mại điện tử (e-commerce) ở Việt Nam năm
2020 ước tính lên đến 13,2 tỉ đô la, tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức 15%. Với
chi phí logistics ước tính chiếm khoảng gần 10% doanh thu của các doanh nghiệp
thì doanh số của hoạt động logistics điện tử ở Việt nam trong những năm tới có
thể sẽ đạt đến mức hàng tỉ đô la.
Đỗ Dũng theo
Vneconomy